Chào Mừng Ngày Thành Lập Đoàn Thanh Niên 26-03-2024 !

Email
Mật khẩu
Nhớ mật khẩu

Quên mật khẩu | Đăng ký

Đang truy cập: 10
Trong ngày: 325
Trong tuần: 2716
Lượt truy cập: 5717280


Lượt xem: 1561

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Dạy và học ở trường phổ thông là công việc quan trọng hàng đầu diễn ra trong các hoạt động sư phạm. Hoạt động này hướng tới chất lượng của người thầy cũng như của trò. Vì vậy, người thầy phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi giải pháp hữu hiệu nhằm tăng hiệu quả giảng dạy của mình.

Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học là nhu cầu thiết yếu đặt ra đối với những người đang làm nhiệm vụ giảng dạy. Vậy, làm thế nào để học sinh ngày nay có tình yêu bộ môn xã hội và đặc biệt có thể học tốt Ngữ Văn? Đó là vấn đề khiến nhiều giáo viên dạy Ngữ Văn trăn trở. Với quan điểm cá nhân, tôi nhận thấy đa số học sinh chưa hứng thú trong học tập, các em chuẩn bị bài mới chưa thật chu đáo.

            Đa số các em còn thụ động trong soạn bài mới coi đó là nhiệm vụ bắt buộc khi lên lớp. Một số em khi kiểm tra vở soạn thì rất đầy đủ, sạch đẹp, trình bày khoa học nhưng thực chất là những bài sao chép trong sách để học tốt Ngữ văn. Điều này tôi đã gặp ở nhiều năm, nhiều lớp học sinh.

Để khắc phục điều này trước hết phải hướng dẫn học sinh soạn bài mới ở nhà để tiết học có hiệu quả cao. Chính vì thế tôi viết đề tài này với mong muốn giúp các em biết cách soạn bài( Đọc văn) có hiệu quả nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học.

Phạm vi trình bày tôi chủ yếu chú trọng phân môn đọc văn bởi lẽ hai phân môn Làm văn và Tiếng Việt sách giáo khoa đã có những câu hỏi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài thật chi tiết và cụ thể.

B. NỘI DUNG

 I. Cơ sở của đề tài

  1. Cơ sở lí luận

         Sách giáo khoa theo cách hiểu thông thường ở nước ta hiện nay bao gồm sách cho học sinh học và sách bài tập. Riêng bộ môn Ngữ Văn có thêm những tài liệu hổ trợ thiết yếu khác như sách hướng dẫn làm bài tập, sách học tốt Ngữ văn, những bài văn hay, những bài văn mẫu …

         Theo điều 25 của Luật giáo dục qui định: sách giáo khoa để sử dụng chính thức thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở trường và các cơ sở giáo dục khác. Đó cũng chính là ý nghĩa pháp lí của sách giáo khoa. Kiến thức của sách giáo khoa được xem 1à chuẩn mực cho mọi đánh giá nói chung và thi cử nói riêng.

         Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn mới, sự đổi mới về mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học cũng không kém phần quan trọng. Và để đạt được những mục tiêu mới, sách giáo khoa cũng có nhiều đổi mới sâu sắc đa dạng, phong phú hơn như:

- Chức năng hướng dẫn hoạt động của học sinh.

- Chức năng cung cấp kiến thức.

- Chức năng định hướng phương pháp giảng dạy của giáo viên.

- Chức năng củng cố kiến thức, ôn tập hệ thống hoá kiến thức, kiểm tra đánh giá.

- Chức năng phân hoá, mở rộng kiến thức dành cho học sinh khá giỏi ham thích tìm hiểu thêm.

Do có những đổi mới về sách giáo khoa và phương pháp dạy học như vậy nên công tác soạn bài ở nhà của học sinh là hết sức quan trọng. Nó là yếu tố quyết định 50% thành công của giờ học.

Sách giáo khoa theo chương trình cũ được thiết kế chủ yếu là cung cấp cho các em kiến thức ở ba phân môn: văn học, tiếng việt, làm văn. Và ba phân môn này được tách thành ba cuốn sách khác nhau. Mặc dù kiến thức được sắp xếp một cách khoa học, có trọng tâm và cấu trúc chương trình cũng giống với sách phân ban hiện nay nhưng nó vẫn có một số bất cập:

 - Ba phân môn được soạn thảo ở ba cuốn sách khác nhau nên nó rất khó cho giáo viên khi dặn dò bài cũ bởi vì học sinh không mang theo cùng lúc ba cuốn sách đến lớp.

 - Trong phân phối chương trình cũ có đan xen các phân môn trong quá trình giảng dạy nhưng chưa thật hợp lí.

 - Các thể loại trong phân môn đọc văn chưa thật phong phú, một số bài còn mang tính chất giới thiệu theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”.

 - Các câu hỏi hướng dẫn học bài chưa có tính chất định hướng mà còn vụn vặt, chung chung.

 - Đặc biệt trong sách giáo khoa cũ không có phần yêu cầu cần đạt và phần ghi nhớ ở cuối bài học nên học sinh rất khó nắm bắt được nội dung trọng tâm của bài học.

Với những vấn đề trên, yêu cầu đổi mới sách giáo khoa là thiết yếu. Và bộ sách chỉnh lí hợp nhất mà học sinh đang học là bộ sách phù hợp nhất vì nó đã khắc phục được những nhược điểm trong bộ sách cũ. Mặc dù vẫn còn ít nhiều hạn chế nhưng nhìn chung nó đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đó là: giáo viên hướng dẫn, học sinh chủ động tích cực. Và muốn học sinh chủ động tích cực trong giờ học điều đầu tiên là phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng ở nhà. Ở trên lớp, giáo viên gợi ý, học sinh thảo luận từ đó rút ra những kết luận hợp lí nhất.

 2. Cơ sở thực tiễn

Trong những năm đầu giảng dạy bộ môn Ngữ văn chương trình thay sách, có tới hơn 50% học sinh không chuẩn bị bài ở nhà, số còn lại rất ít em chuẩn bị kĩ lưỡng, một số em chép lại từ vở các bạn hoặc từ trong sách tham khảo. Nguyên nhân chủ yếu là vì: các em đọc sách giáo khoa mà không hiểu chổ nào là trọng tâm, giáo viên thì chưa có thời gian dặn dò kĩ. Hơn nữa trường tôi nằm ở vùng sâu vùng xa, chủ yếu là con em lao động, thời gian chuẩn bị bài ở nhà là có hạn vì các em còn phải phụ giúp cha mẹ nhiều việc khác nữa. Chính vì thế đa số đều có tâm lí: soạn bài làm gì, để đối phó thôi mà, lên lớp thế nào cô chẳng giảng lại, lúc đó chép vào vở cũng được. Và thế là các em soạn bài một cách sơ sài, đối phó, thậm chí có em còn không biết mình viết gì trong vở nữa. Chính vì  thế trên lớp các em cứ cắm cúi chép bài vào vở mà không một chút động não nào, thậm chí các em không còn thời gian để phát biểu xây dựng bài. Những năm sau tôi đã hướng dẫn học sinh soạn bài cụ thể, rõ ràng nên các em có tính tự lực cao, chuẩn bị bài mới khá tốt, trên lớp cũng có nhiều thời gian hơn để nghe giảng và trao đổi ý kiến.

II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

Thực tế từ trước đến nay, giáo viên và học sinh luôn nhận thức được việc chuẩn bị bài dựa vào sách giáo khoa là yêu cầu thiết yếu nhất nhưng cả giáo viên và học sinh đều gặp một số khó khăn sau:

 1. Đối với giáo viên

 - Ở một số bài, do phân phối thời gian chưa hợp lí nên phần củng cố và dặn dò còn qua loa đại khái.

 - Hoặc có hướng dẫn cho học sinh nhưng còn sơ sài ví dụ như: học theo câu hỏi sách giáo khoa, xem bài tiếp theo …

 - Việc hướng dẫn học sinh soạn bài mới, tài liệu ở nhà chưa cụ thể, chưa định hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ lược.

 2. Đối với học sinh

Học sinh về nhà có sử dụng soạn bài nhưng không hiệu quả, không biết chổ nào là quan trọng. Vì vậy các em khó nắm bắt kiến thức một cách cụ thể, có trình tự, do đó gây cho các em cảm giác lười, không tự tìm tòi kiến thức mới, không học bài cũ, luôn ỷ lại và chờ đợi vào bài giảng của giáo viên để chép. Ở nhà không chuẩn bị bài, trên lớp cô lại giảng với lượng kiến thức nhiều, cô nói điều gì trò cũng cảm thấy mới tinh cho nên có em thì cắm cúi chép bài mà không nghe giảng, có em mệt quá thiếu tập trung, không ghi bài thậm chí nghịch phá. Kết quả không cao đã đành, các em càng ngày càng thấy chán học môn văn.

III. Giải pháp và kết quả đạt được

  1. Giải pháp thực hiện

   1.1. Về phía giáo viên

Quan điểm đổi mới trong giảng dạy hiện nay luôn đề cao tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tiếp nhận tri thức. Người thầy chỉ là người định hướng, hướng dẫn cho học sinh tự mình chiếm lĩnh tri thức ấy. Và phương tiện mà người giáo viên dùng để thực hiện nhiệm vụ đó chính là hệ thống câu hỏi khi lên lớp. Bên cạnh hệ thống câu hỏi mà giáo viên định hướng, học sinh còn được trang bị một số câu hỏi từ sách giáo khoa trong phần hướng dẫn học bài, chuẩn bị bài ở nhà.

Chuẩn bị bài là một yêu cầu quan trọng trong việc dạy và học môn Ngữ Văn (đây là yêu cầu chung cho tất cả các môn học, tuy nhiên đối với môn Ngữ Văn đây lại là yêu cầu mang tính đặc thù). Có chuẩn bị bài tốt thì học sinh mới có thể lĩnh hội tốt kiến thức trong quá trình Đọc - hiểu văn bản. Vì thế trong sách giáo khoa bất cứ môn học nào, không ngoại trừ môn Ngữ Văn đều có hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài ở phần sau nội dung bài học. Tuy nhiên thực tế giảng dạy và học tập môn Ngữ Văn hiện nay cho thấy, học sinh chuẩn bị bài trên cơ sở câu hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa (SGK) chỉ để đối phó, chiếu lệ.

Giáo viên cần nắm được chức năng định hướng phương pháp tự học của học sinh trong sách giáo khoa. Dạy học theo quan điểm hiện đại không phải là thông báo kiến thức, giảng giải, minh hoạ cho học sinh hiểu mà còn tổ chức cho học sinh hoạt động tự lực để xây dựng kiến thức, hình thành kĩ năng và năng lực sáng tạo. Bởi vậy phương pháp dạy học chủ yếu là tổ chức hướng dẫn cho học sinh hoạt động, nhưng sách giáo khoa mới là viết cho học sinh, chỉ dẫn những hoạt động chủ yếu cho học sinh. Giáo viên căn cứ vào những hoạt động của học sinh mà xác định hoạt động của bản thân để hỗ trợ cho học sinh thực hiện thành công hoạt động học tập.

Ngày nay phương pháp dạy Ngữ Văn trở nên phong phú nhờ sự tích hợp kiến thức, với sự thâm nhập cảm thụ nghệ thuật, phương pháp dạy học phần đọc văn đã đi đến những phát hiện mới về vai trò chủ thể cảm thụ của người học mà “ Tư duy thường bắt đầu từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên hay sự thắt mắc từ sự mâu thuẫn. Tình huống có vấn đề như thế có tác dụng lôi cuốn cá nhân vào quá trình tư duy”(Rubinxten). Chính vì thế giáo viên phải hướng dẫn học sinh thật cụ thể tất cả các khâu sau:

a. Khâu thứ nhất: công tác chuẩn bị của giáo viên trước khi đến lớp.

- Trong giáo án, sau mỗi tiết dạy, ở phần dặn dò bao giờ cũng có hai phần:

 + Bài cũ: giáo viên yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức đã học và hoàn thành các bài tập mà giáo viên đã giao.

+ Bài mới: Giáo viên không chỉ dặn dò học sinh về nhà soạn bài nào mà còn đưa ra một số câu hỏi hướng dẫn cụ thể. Các câu hỏi này được thiết kế theo trình tự bài học mà giáo viên sẽ giảng trong tiết học sau (dĩ nhiên các câu hỏi này chỉ mang tính gợi ý khái quát).

b. Khâu thứ hai: Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa ở nhà để chuẩn bị bài.

- Trước tiên học sinh đọc một lượt tất cả các mục trong sách giáo khoa sau đó xác định kiến thức trọng tâm thông qua phần kết quả cần đạt và phần ghi nhớ.      

 b.1 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:

         Hướng dẫn học sinh đọc kĩ tiểu dẫn, nắm được tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Nắm một số ý quan trọng liên quan đến tác giả và tác phẩm.

sVề tác giả: Sống vào thời kì nào? Bối cảnh lịch sử xã hội ra sao?

         + Về quê quán: Cần nhấn mạnh “địa linh nhân kiệt” nhân tài xuất hiện ở mảnh đất này. Mảnh đất có truyền thống yêu nước, truyền thống thơ văn (nếu có).

         + Xuất thân từ tầng lớp nào? Điều này có ảnh hưởng tới tác phẩm.

         + Cá tính, thái độ sống của nhà văn trước cuộc đời, trước số phận của con người.

s Hoàn cảnh sáng tác: có vai trò vô cùng quan trọng. Có nắm được hoàn cảnh sáng tác học sinh mới có thể phần nào cảm thụ được nội dung. Đồng thời các em cũng có thể đối chiếu giữa những tác phẩm cùng  thể loại, đề tài, sự vật sự việc nhưng ở những hoàn cảnh khác nhau thì sự thể hiện, cách nhìn nhận đánh giá của nhà văn hoàn toàn không giống nhau.

s Về sự nghiệp thơ văn: Nội dung tác phẩm và giá trị của nó đối với con người.

 

b.2. Hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm:

         Giáo viên hướng dẫn, khuyến khích, động viên các em đọc tác phẩm trước khi soạn bài, bởi hoạt động đọc được xem là dạng đặc thù của cảm thụ nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Có đọc sách các em mới có thể tóm tắt được cốt truyện theo cách riêng của mình mà không phải lệ thuộc vào sách để học tốt, hay là vở của bạn.

         Học sinh không thể hiểu được bất cứ một tác phẩm nào dù rõ ràng đến mấy, dù sức mạnh gợi cảm và gây ấn tượng của tác phẩm đến đâu chăng nữa nếu bản thân không đọc, không tự mình tiếp xúc với tác phẩm.

         Tóm lại: việc đọc là để học sinh lắng nghe ngôn từ nghệ thuật, cảm thụ nghệ thuật trực tiếp của học sinh đối với tác phẩm. Đọc để nắm nội dung tác phẩm, hình tượng nhân vật gây xúc động thẩm mĩ, tác động đến tình cảm và đạo đức của học sinh.

- Sau đó học sinh dựa vào các câu hỏi mà giáo viên đã gợi ý để xác định các luận điểm lớn.

- Tiếp theo học sinh dựa vào các câu hỏi phần hướng dẫn học bài để tìm các luận cứ thích hợp cho các luận điểm đã triển khai.

- Đối với những phần kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa và những dẫn chứng quan trọng thì các em dùng bút chì gạch chân cho dễ nhớ và đỡ tốn thời gian chép lại. Dĩ nhiên có em sợ làm thế sẽ bẩn sách nhưng tôi đã xác định cho các em một điều rằng: sách giáo khoa không phải để ngắm, để giữ gìn cẩn thận mà nó là một người bạn thân thiết giúp chúng ta rất nhiều trong công tác soạn bài, bởi vậy các em phải tận dụng triệt để tác dụng đắc lực của nó.

c. Khâu thứ ba: Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa ở trên lớp.

- Với tất cả những gì các em đã chuẩn bị kĩ lưỡng ở nhà, ở trên lớp học sinh chỉ cần:

   + Chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài.

   + Chỉnh sửa những chổ sai sót trong vở soạn.

   + Thêm bớt những chổ thiếu hoặc thừa.

   + Tốc kí những lời bình sâu hoặc mở rộng của giáo viên.

   + Chốt lại những ý mà mình tâm đắc nhất.

- Riêng sách giáo khoa đến lúc này thực sự phát huy được tác dụng của nó bởi tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng, học sinh chỉ cần chú ý các câu hỏi của giáo viên là phát hiện ngay những dẫn chứng cụ thể đã được gạch chân. Sau khi giáo viên chốt lại những ý quan trọng, học sinh chỉ việc ghi số trang vào vở để về nhà tiện tìm học chứ không cần sao chép từ sách giáo khoa sang vở nữa.

- Với sự chuẩn bị kĩ lưỡng ở nhà dựa trên sự hướng dẫn chung của giáo viên từ trước, tất cả học sinh đều có những điểm tương đồng trong vở soạn, lên lớp nếu có thảo luận cũng chỉ để thống nhất ý kiến đồng thời bổ sung cho nhau, cùng nhau phát hiện ra những vấn đề sáng tạo mới lạ.

     Và như vậy có thể nói cả giáo viên và học sinh phối hợp rất nhịp nhàng trong giờ học.

d. Khâu thứ tư: Hướng dẫn học sinh đọc sách tham khảo.

     Dĩ nhiên ngoài sách giáo khoa, sách tham khảo là một tư liệu không kém phần quan trọng giúp các em mở rộng kiến thức. Tuy nhiên không phải loại sách nào cũng tốt, cũng chính xác khoa học. Vì thế giáo viên cần hướng dẫn học sinh khi đọc sách tham khảo cần chú ý:

- Không nên tìm đọc quá nhiều cuốn mà chỉ cần chọn cho mình một đến hai cuốn có chất lượng.

- Khi đọc cần ghi chép nhanh lại những ý hay, những lời bình độc đáo để làm tư liệu.

- Khi lựa chọn sách cần chú ý nhà xuất bản, tác giả.

1. 2. Về phía học sinh

Dựa trên những gì mà giáo viên hướng dẫn, học sinh chỉ cần một chút thời gian, một chút chuyên tâm và ý thức tự học cao thì các em sẽ không còn cảm thấy môn văn quá khó nữa. Dĩ nhiên là với những gì mà giáo viên hướng dẫn, không phải tất cả các em đều thực hiện và thực hiện tốt, thế nhưng đa số các em đều phải tự ý thức được việc chuẩn bị bài ở nhà là cần thiết trong quá trình học.

 

2. Kết quả đạt được.

     Qua thực tiễn giảng dạy áp dụng những giải pháp trên, bản thân tôi nhận thấy:

- Các em đã có khả năng tự lực cao và không còn quá phụ thuộc vào giáo viên nữa.

- Trong giờ học các em đã biết kết hợp bài soạn ở nhà với lời giảng của giáo viên, biết cách chọn lọc ý để ghi chép, biết cách sử dụng sách có hiệu quả để tiết kiệm thời gian chép bài và chú ý nghe giảng.

- Nhiều em đã phát biểu rằng: nếu đi học mà không mang vở soạn nhất là những hôm học đọc văn thì em không tài nào học được.

 

3. Minh họa cụ thể về việc hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà dựa vào sách giáo khoa và một số gợi ý của giáo viên.

3.1 Yêu cầu của các loại câu hỏi:

- Câu hỏi phải gợi mở để tìm tòi vấn đề, phải đạt được mục đích kích thích sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng bên trong của HS. Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu HS trả lời có hoặc không.

Ví dụ: Khi giảng tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, chúng ta không nên đặt những câu hỏi như: Đọc xong tác phẩm, em thấy Chí Phèo có phải là một tên lưu manh không? chúng ta phải đặt những câu hỏi giúp HS tìm những chi tiết cho thấy quá trình lưu manh hoá của Chí như thế nào? Vì sao Chí biến mình thành một kẻ lưu manh như vậy?…

- Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là tác động đến trực giác của HS. Ở dạng câu hỏi này GV phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao.

- Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát. Cần có những câu hỏi nhỏ gợi ý, tạo điều kiện để HS nhận ra yêu cầu và trả lời được.

Ví dụ: khi dạy bài Mộ- Chiều Tối của Hồ Chí Minh chúng ta có thể đặt câu hỏi: “hành trình chuyển lao của Bác được phản ánh như thế nào qua bài thơ?” Để hiểu rõ được câu hỏi này GV phải gợi mở cho HS tìm hiểu về: thời gian, không gian chuyển lao; người bị giải lao đi trong tâm thế như thế nào…từ đó đi đến kết luận tuy hành trình gặp muôn vàn gian khó nhưng người bị giải lao không còn là hình ảnh của một tù nhân trong một cuộc chuyển lao mà là hình ảnh của một chiến sĩ kiên cường lên đường vì nghĩa lớn.

- Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài giảng, tránh đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt.

- Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp với đối tượng và phân loại đối tượng. Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ giảng văn phải vừa tạo ra sự kích thích, vừa tác động đến nhận thức, tư duy của HS. Việc đưa ra câu hỏi phải căn cứ vào nội dung bài học, vào đối tượng HS, vào điều kiện khách quan… để có cách đặt câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi thích hợp.

3.2. Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ đọc văn.

Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của HS, kết hợp phương pháp dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau:

 3.2.1.Câu hỏi tái hiện

 GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu hỏi này giúp HS tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: Các hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự phản ảnh…Các câu hỏi này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình tiếp nhận ở HS. Đó là một biện pháp được sử dụng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa mới học.

Ví dụ 1: Phân tích nhân vật Chí Phèo theo từng giai đoạn trong cuộc đời.Chú ý những vấn đề sau: tại sao Chí Phèo vào tù? Sau khi ra tù Chí Phèo có những thay đổi như thế nào về ngoại hình và tính cách? Con người bị lưu manh hoá ấy đã thức tỉnh nhờ ai? Phân tích ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của Thị Nở? Chí Phèo đã thực sự rơi vào bi kịch cuộc đời mình như thế nào?

Ví dụ 2: Khi dạy bài “Vợ chồng A Phủ”, ngoài những câu hỏi SGK tôi hướng dẫn một số câu hỏi cho các em chuẩn bị:

- Nắm phần Tiểu dẫn, tóm tắt văn bản.

- Nhân vật Mị có những đặc điểm như thế nào?( ngoại hình? Cảnh ngộ? Và  những sự việc đã xảy ra đối với nhân vật?)

            Trước khi học bài “Vợ nhặt” tôi đã dặn học sinh về nhà chuẩn bị những công việc sau:

- Tìm hiểu về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945

- Tìm hiểu về tác giả Kim Lân và tìm đọc những tác phẩm cùng thời.

- Đọc tất cả các mục trong sách giáo khoa và:

+ Xác định hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm? Giải thích ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”? Qua nhan đề và tác giả muốn nói lên điều gì?

+  Phân tích tình huống truyện được xây dựng trong tác phẩm? Tác dụng của nó?

+ Khung cảnh ngày đói ở xóm ngụ cư được tác giả miêu tả như thế nào?

+ Gạch chân trong sách giáo khoa những chi tiết miêu tả các nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ từ đó phân tích ba nhân vật ấy. Chú ý diễn biến tâm trạng của từng nhân vật để thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn của họ. Qua ba nhân vật ấy, tác giả muốn khẳng định điều gì?

+ Phát hiện những nét chính về nghệ thuật của tác phẩm.

- Chuẩn bị đầy đủ bảng phụ để thảo luận nhóm.

3.2.2.Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ

Loại câu hỏi này nhằm mục đích làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp HS dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi GV biểu diễn phương tiện trực quan (băng ghi hình, phim đèn chiếu, phim điện ảnh)

Ví dụ 1: - Khi dạy bài Chí Phèo của Nam Cao, ở phần quá trình thức tỉnh lương tâm của Chí có đoạn đề cập đến nhân vật Thị Nở, giáo viên có thể đặt câu hỏi Em có nhận xét gì về ngoại hình của nhân vật này?

Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm qua nhân vật Chí Phèo? Nhận xét về bút pháp nghệ thuật của Nam Cao trong tác phẩm?

Ví dụ 2: Dạy bài “Vợ chồng A Phủ” HS chuẩn bị những câu hỏi: Nhận xét về sự phát triển tính cách nhân vật Mị từ lúc bị bắt đến nhà Thống Lí Pá Tra cho đến khi giải cứu cho A Phủ?

- Bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài trong việc miêu tả nhân vật Mị? Đặc sắc nghệ thuật tả cảnh trong tác phẩm?

3.2.3. Câu hỏi yêu cầu có sự so sánh đối chiếu

Sự so sánh đối chiếu là một hình thức của thao tác phân tích trong tư duy. Qua việc so sánh đối chiếu HS có thể nhận ra những nét độc đáo, những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Các loại câu hỏi đưa ra có thể là để so sánh các hình ảnh chi tiết trong tác phẩm hoặc với các tác phẩm khác.

Ví dụ 1: trước khi dạy bài “Chí Phèo” của Nam Cao, tôi đã giao cho học sinh một số công việc để về nhà chuẩn bị như sau:

Em hãy so sánh hình tượng nhân vật Chí Phèo với hình tượng nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố (văn 9 tập 2), từ đó chỉ ra những phát hiện độc đáo của Nam Cao khi miêu tả hình tượng của người nông dân trước cách mạng?

Ví dụ 2: Khi dạy bài “Vợ chồng A Phủ”, ngoài những câu hỏi SGK tôi hướng dẫn một số câu hỏi cho các em chuẩn bị:

- Nhân vật Mị khiến em nghĩ đến nhân vật nào trong văn học hiện đại mà em đã từng học? hãy so sánh?

- Âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng đã thức tỉnh điều gì ở Mị? Âm thanh này gợi ta nhớ đến âm thanh nào trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao( Âm thanh đã làm thức tỉnh phần Người trong Chí Phèo)?

- Nhận xét về chi tiết kết thúc tác phẩm so với kết thúc tác phẩm Chí Phèo?

 

 

Với tất cả những gì giáo viên đã dặn dò, các em về nhà chuẩn bị rất kĩ, tiết học sau tôi chỉ việc phát vấn và các em trả lời xoay quanh những vấn đề đã nêu. Ở những vấn đề thảo luận nhóm, các em tranh cải rất hăng say và không còn cảnh cắm cúi chép bài không thèm để ý gì xung quanh nữa. Và sau những tiết học như thế đa phần các em đều nắm bài ngay ở trên lớp và giờ học diễn ra khá nhẹ nhàng với cả thầy lẫn trò.

Tuy nhiên giáo viên phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để câu hỏi hướng vào nội dung bài học. Việc hướng dẫn soạn bài phải phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể có. Giáo viên tránh đặt câu hỏi máy móc, tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để giờ học không rơi vào tình trạng dạy học hỏi đáp máy móc đơn điệu.

- Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh.

- Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà để học sinh tham gia xây dựng bài

-  Động viên khích lệ HS bằng điểm số khi các em tham gia xây dựng bài. Tạo không khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa thầy và trò để phát huy tư duy sáng tạo của HS. Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho HS cảm thụ sâu sắc giá trị của đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập của HS là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Nhìn chung, để biến những lý luận trên thành hiện thực đòi hỏi người thầy ngoài tri thức khoa học cần phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo và phải có thêm niềm tin vào HS của mình.

 

 

IV. Kết luận và kiến nghị

  1. 1.      Kết luận

Dĩ nhiên với tất cả những gì tôi đề cập ở trên, bản thân tôi đã thực hiện có kết quả khá khả quan nhưng không phải tiết học nào tôi cũng thành công bởi không phải học sinh nào cũng làm được những gì mà giáo viên yêu cầu. Mặc dù chất lượng môn văn chưa được cải thiện nhiều bởi những nguyên nhân khác nhau nhưng một số học sinh lớp tôi dạy không còn quá “ghét” môn văn nữa, thậm chí một số em đã bắt đầu yêu thích môn văn. Dĩ nhiên học tốt văn không phải chỉ cần cần cù, chăm chỉ mà cần phải có một chút năng khiếu. Và nghề dạy văn cũng không phải là một nghề đơn giản chỉ truyền thụ kiến thức mà còn giáo dục tâm hồn, nhân cách cho học sinh. Đó là một điều khó mà không phải ai cũng làm được.

2. Kiến nghị

Trước khi thực hiện đề tài này, tôi đã rất trăn trở về một vấn đề: một số học sinh trong lớp tôi dạy gia đình còn quá khó khăn đến mức có em trong bao nhiêu năm đi học không có lấy một cuốn sách văn tham khảo nào. Cho nên trong giờ học các em cứ cắm cúi chép hết tất cả lời giảng của giáo viên mà không để ý gì xung quanh với mong muốn lấy đó làm tư liệu tham khảo phòng khi kiểm tra. Chính vì thế tôi rất mong Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện giúp các em như:

- Bổ sung thật đầy đủ các loại sách tham khảo ở thư viện để các em có thể mượn đọc. Nếu có thể, nhà trường nên nhờ giáo viên chủ nhiệm lập danh sách những em thật sự có hoàn cảnh gia đình khó khăn, tìm hiểu về nhu cầu của các em và tặng cho các em những cuốn sách mà các em cần để thuận tiện cho việc học. Đó cũng là một việc làm thiết thực mà thiết nghĩ, học sinh nào chuyên tâm vào việc học cũng mong muốn.

Những gì tôi trình bày chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm và tự hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn.

                  

 

ĐC Mail Ban Quản Trị: quantriwebdk@gmail.com
Quản Trị : Thầy Lê Quốc Hoàng - DĐ: 0903.830.245
Email: lequochoangtp@gmail.com Hoặc lehoang125tp@gmail.com
Phòng CNTT Trường THPT Đoàn Kết
Địa Chỉ: Khu 7, TT. Tân Phú - H.Tân Phú - Đồng Nai